Suy dinh dưỡng là một tình trạng bệnh lý xảy ra khi chế độ ăn nghèo chất đạm, năng lượng và các vi chất dinh dưỡng. Bệnh thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau nhưng đều có ảnh hưởng đến phát triển thể chất, tinh thần vận động của trẻ. Bài viết dưới đây BS CK Trịnh Duy Hải – Bác sĩ chuyên khoa Dinh dưỡng Bệnh viện hữu nghị Lạc Việt sẽ chia sẻ một số thông tin hữu ích về nguyên nhân và cách phòng bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ cho các mẹ cùng tham khảo.
1. Nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ
Do ăn uống
Trẻ không được ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng như đạm, mỡ, đường, vitamin và muối khoáng. Do sai lầm về phương pháp nuôi dưỡng như cho trẻ ăn bột quá sớm trước 6 tháng tuổi, chủ yếu là bột đường, bột mắm muối, mì chính, hoặc trẻ phải cai sữa quá sớm dưới 12 tháng tuổi. Cho con ăn kiêng khi trẻ bị tiêu chảy, đặc biệt là kiêng mỡ, do đó làm giảm nguồn năng lượng cung cấp cho trẻ.
Do nhiễm khuẩn
Trẻ dưới 3 tuổi rất dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, sởi, tiêu chảy…Hậu quả của các bệnh nhiễm khuẩn làm cho trẻ kém ăn, ăn thiếu số lượng và chất lượng nên dẫn đến suy dinh dưỡng, ngược lại trẻ suy dinh dưỡng thường suy giảm miễn dịch, rất dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn.
2. Những trẻ có nguy cơ dễ bị suy dinh dưỡng
– Trẻ em từ 6 – 18 tháng tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng cao nhất vì lứa tuổi này trẻ bắt đầu ăn bổ sung và giảm dần bú mẹ.
– Trẻ đẻ thấp cân ( dưới 2500g)
– Trẻ không được bú sữa mẹ trong năm đầu
– Trẻ thường xuyên bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn: tiêu chảy, viêm phổi…
– Trẻ bị dị tật bẩm sinh như sứt môi, hở hàm ếch, tim bẩm sinh, di chứng thần kinh…
– Trẻ sống trong gia đình đông con, kinh tế eo hẹp.
3. Cách phát hiện trẻ bị suy dinh dưỡng
Dựa vào các chỉ số nhân trắc: cân nặng, chiều cao, vòng cánh tay. Hiện nay tổ chức y tế thế giới ( WHO) khuyến nghị sử dụng chuẩn tăng trưởng của WHO 2006 tính theo độ lệch chuẩn (SD) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em.
– SDD thể nhẹ cân: Cân/tuổi < – 2SD
– SDD độ I: Cân/tuổi < – 2SD đến – 3 SD
– SDD độ II: Cân/ tuổi < -3 SD đến – 4 SD
– SDD độ III: Cân/ tuổi < – 4SD
– SDD thể thấp còi: Cao/tuổi < – 2SD
– SDD thể gầy còm: Cân/cao < – 2SD
4. Biểu hiện của suy dinh dưỡng
– Suy dinh dưỡng nhẹ: Cân nặng còn 70 – 80 % so với cân nặng của trẻ bình thường, lớp mỡ dưới da ở bụng, mông mỏng, trẻ vẫn thèm ăn và chưa có biểu hiện rối loạn tiêu hóa.
– Suy dinh dưỡng vừa: cân nặng còn 60 – 70 % so với cân nặng của trẻ bình thường, mất lớp mỡ dưới da ở bụng, mông. Trẻ có thể biếng ăn, phân sống, lỏng từng đợt.
– Suy dinh dưỡng thể nặng:
- Thể teo đét (Marasmus): Cân nặng còn dưới 60 %, trẻ gầy, chỉ còn da bọc xương.
- Thể phù (Kwashiorkor): Cân nặng còn 60 – 80 %, trẻ phù toàn thân hoặc 2 chi, trên da có thể xuất hiện các màng sắc tố màu nâu và ổ loét.
- Thể phối hợp (Marasmus – Kwashiorkor): cân nặng còn dưới 60%.Trẻ gầy yếu và phù 2 chi.
Trẻ suy dinh dưỡng thường bị thiếu máu, thiếu vitamin, đặc biệt là vitamin A, gây khô mắt có thể dẫn đến mù lòa.
5. Nên làm gì khi trẻ bị suy dinh dưỡng?
Suy dinh dưỡng là bệnh có thể điều trị khỏi nhưng cần phát hiện sớm, xử lý kịp thời. Suy dinh dưỡng vừa và nhẹ có thể điều trị tại nhà, điều chỉnh cách ăn uống của trẻ.
– Trẻ suy dinh dưỡng thường kém ăn, phải cho trẻ ăn nhiều bữa trong ngày để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng. Nếu trẻ đang bú mẹ, vẫn tiếp tục cho bú, bú kéo dài 2 năm. Tùy theo lứa tuổi cho ăn thêm bột cháo, nhưng phải quấy lẫn với thịt hoặc trứng, dầu mỡ và các loại rau, phải ăn thêm hoa quả giàu vitamin A.
– Không cai sữa, không kiêng dầu mỡ khi trẻ vừa suy dinh dưỡng vừa tiêu chảy. Cho trẻ uống thêm các loại vitamin (đa sinh tố).
– Trẻ suy dinh dưỡng vừa và nhẹ nếu không có biểu hiện khô mắt, cho uống vitamin A liều cao để phòng bệnh, chỉ dùng 1 lần duy nhất như sau:
– Trẻ dưới 6 tháng: 50.000 đv/ngày
– Trẻ từ 6 tháng – 1 tuổi: 100.000 đv/ngày
– Trẻ trên 1 tuổi: 200.000 đv/ngày
Ngoài ra cần theo dõi phát hiện các bệnh nhiễm khuẩn thông thường như tiêu chảy, viêm đường hô hấp cấp để xử trí. Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng nặng, phải được điều trị tại cơ sở y tế.
6. Biện pháp phòng bệnh suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng là một bệnh có thể phòng tránh được nếu bà mẹ có kiến thức nuôi con theo khoa học.
Chăm sóc trẻ từ trong bụng mẹ
Trong thời gian mang thai, các bà mẹ cần ăn uống bồi dưỡng hơn bình thường, lao động nhẹ nhàng, đồng thời theo dõi tăng cân từng quý, trong 9 tháng mang thai, cân nặng tăng trung bình 10-12 kg. Thực hiện khám thai định kỳ ít nhất 3 lần, tiêm phòng uốn ván, nghỉ ngơi trước đẻ và sinh đẻ tại cơ sở y tế để mẹ tròn con vuông.
Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý
Cho trẻ bú sớm ngay sau đẻ, bú càng sớm càng tốt, cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu, bú kéo dài đến 24 tháng.
Từ 6 tháng tuổi trở lên, ngoài bú mẹ cho ăn bổ sung hợp lý, thực hiện tô màu bát bột. Khi trẻ ốm không được kiêng khem quá mức, cho trẻ ăn nhiều hơn bình thường, thức ăn dễ tiêu hóa và đủ các chất dinh dưỡng
Theo dõi biểu đồ tăng trưởng
Trong 2 năm đầu, mỗi tháng cân trẻ 1 lần và ghi vào biểu đồ, qua cân nặng. Trẻ từ 3 – 5 tuổi thì 2 – 3 tháng cân 1 lần. Nếu thấy cân nặng của trẻ trong 2 tháng liền không tăng hoặc sụt cân là dấu hiệu sớm để phát hiện suy dinh dưỡng.
Tiêm chủng
Tiêm chủng phải thực hiện ngay trong năm đầu, chủ yếu là các loại vacxin, lao, viêm gan B, bạch hầu, uốn ván, ho gà, bại liệt, sởi. Tiêm chủng đầy đủ và đúng kỳ hạn. Từ ngày 12/8/2017, Bệnh viện hữu nghị Lạc Việt đã có phòng tiêm chủng dịch vụ với đầy đủ các loại vắc xin dành cho mọi lứa tuổi, đạt tiêu chuẩn theo quy định của Bộ y tế và Tổ chức y tế thế giới (WHO).
Kế hoạch hóa gia đình
Mỗi bà mẹ chỉ nên đẻ 2 con cách nhau 3 – 5 năm.
Một số thông tin hữu ích về cách phòng bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ đã được Bác sĩ chuyên khoa Trịnh Duy Hải chia sẻ. Nếu có bất cứ băn khoăn thắc mắc nào cần được giải đáp, các mẹ vui lòng liên hệ đường dây nóng: 1900 1269 / 0949.232.115 để được tư vấn và hỗ trợ.