* PHÁT HIỆN SỚM GÓP PHẦN ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG BỆNH UNG THƯ
Hằng ngày, người Việt Nam phải tiếp xúc với nhiều vật dụng chứa chất độc hại như quần áo, đồ nhựa, thực phẩm không sạch, lối sống không lành mạnh, môi trường ô nhiễm, thiếu kiến thức về sức khỏe… khiến một loạt bệnh mãn tính không lây tấn công người khỏe mạnh, trong đó, sự gia tăng nhanh số lượng bệnh nhân ung thư là một minh chứng cụ thể.
Tại Việt Nam, phần lớn các bệnh nhân mắc bệnh ung thư đến khám khi đã ở giai đoạn muộn, khiến tỉ lệ chữa khỏi bệnh ung thư chưa cao. Điều này một phần do quan niệm sai lầm của người dân khi coi ung thư là căn bệnh chết người. Nhiều bệnh nhân, khi lần đầu tiên nghe tin mình bị ung thư đã rất hoang mang lo sợ và coi đó như một bản án tử hình.
Khoa tiến hành khám sàng lọc những bệnh ung thư thường gặp như ung thư phổi, vú, cổ tử cung, đại trực tràng…
Ung thư không phải căn bệnh vô phương cứu chữa. Có tới 40% loại ung thư có thể dự phòng được, 30% loại có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Bằngcác phương pháp điều trị hiện nay, chúng ta có thể kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng cuộc sống cho 30% người bệnh ung thư còn lại. Vì vậy, việc phòng và phát hiện sớm ung thư đóng vai trò rất quan trọng, góp phần điều trị thành công bệnh ung thư.
Thực tế nghiên cứu đã chứng minh trên 80% nguyên nhân gây bệnh ung thư có nguồn gốc từ môi trường bên ngoài. VÌ vậy, tránh hoặc hạn chế các nguy cơ bên ngoài, chúng ta có thể phòng ngừa được nhiều loại ung thư.
* CHẨN ĐOÁN UNG THƯ
– Sàng lọc, phát hiện sớm Ung thư: Bệnh viện Hữu Nghị Lạc Việt đã triển khai nhiều dịch vụ kỹ thuật cao nhằm sàng lọc, phát hiện sớm Ung thư cho những đối tượng có nguy cơ cao: Ung thư vú, cổ tử cung, buồng trứng, dạ dày, đại tràng, phổi, gan…
– Chẩn đoán Ung thư:
Khi nghi ngờ mắc bệnh ung thư thực hiện các bài kiểm tra y tế là cần thiết. Thông thường áp dụng các phương pháp chẩn đoán sau:
1, Các phương pháp chuẩn đoán Ung thư thông thường: khám lâm sàng, thăm dò cận lâm sàng, …
2, Sinh thiết:
Để chẩn đoán xác định độ ác tính thì phải cần đến khám nghiệm vi thể tế bào ung thư của các nhà giải phẫu bệnh. Thủ thuật để lấy được tế bào và/hoặc các mẫu bệnh phẩm, và khám nghiệm chúng được gọi là sinh thiết.
Chẩn đoán mô học sẽ xác định loại tế bào ung thư đang tiến triển, mức độ ác tính (mức độ loạn sản), sự lan tràn và kích thước của chúng. Di truyền học tế bào và hóa mô miễn dịch có thể cung cấp các thông tin về xu hướng phát triển sau này của ung thư (tiên lượng) và phương pháp điều trị tốt nhất.
Tất cả ung thư đều có thể được chữa trị nếu như khối u được cắt bỏ hoàn toàn, và đôi khi điều này có thể thực hiện bởi sinh thiết. Nếu ung thư lan tràn đến vị trí khác của cơ thể (di căn), phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn là không thể.
Bản chất của sinh thiết phụ thuộc vào cơ quan khám nghiệm. Nhiều sinh thiết (như là sinh thiết da, vú hay gan) có thể thực hiện ngoại trú.
* ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
Việc điều trị ung thư là rất quan trọng trong chương trình Phòng chống ung thư ở mọi quốc gia. Muốn nâng cao chất lượng điều trị, không chỉ hoàn chỉnh về kỹ thuật của mỗi phương pháp, thiết bị, mà còn phải có kinh nghiệm, kiến thức; chẩn đoán thật chính xác, xây dựng phác đồ điều trị cho mỗi bệnh nhân một cách hợp lý nhất, thông thường phải phối hợp làm việc trong một tập thể các thầy thuốc chuyên khoa.
1- Các phương pháp điều trị tại chỗ: Phẫu thuật và Tia xạ: Có khả năng điều trị triệt để khi bệnh còn ở giai đoạn sớm, tổn thương ung thư chỉ khu chú ở tại chỗ hoặc tại vùng. Nếu ung thư đã di căn xa, chúng ta có thể vẫn phải dùng phẫu thuật hay tia xạ để điều trị tạm thời hoặc giải quyết các triệu chứng.
2- Các phương pháp điều trị toàn thân: Điều trị hoá chất (dùng thuốc chống ung thư), điều trị nội tiết (dùng nội tiết tố hoặc dùng kháng nội tiết tố), điều trị miễn dịch (làm tăng sức đề kháng của cơ thể để diệt tế bào ung thư). Các phương pháp này có tác dụng trên phạm vi toàn cơ thể, vì vậy điều trị hoá chất chỉ thường được áp dụng điều trị cho những ung thư có tính chất toàn thân hoặc đã lan rộng.
Điều trị phẫu thuật:
Phẫu thuật triệt để: Cắt rộng, lấy toàn bộ khối ung thư và một phần tổ chức lành bao quanh u. Nếu có hạch vùng khả nghi di căn, cần vét toàn bộ hạch vùng với mục đích không còn để sót lại tế bào ung thư. U, hạch và phần tổ chức lành xung quanh được lấy gọn thành một khối. Phẫu thuật triệt để có khả năng chữa khỏi nhiều loại ung thư khi còn ở giai đoạn sớm (ước lượng khoảng 1/3 tổng số ung thư), nhất là đối với các bệnh ung thư: Vú, Cổ tử cung, Khoang miệng, Da, Giáp trạng, Ống tiêu hóa. . .
Phẫu thuật tạm thời: Chỉ định trong một số trường hợp ung thư đã lan rộng, nhằm mục đích tạm thời làm giảm nhẹ u, làm sạch sẽ, mở thông đường thở, đường tiêu hoá, tiết niệu, cầm máu, chống đau…
Phẫu thuật với mục đích khác: Nhằm kết hợp trong điều trị nội tiết để hạn chế ung thư phát triển như cắt buồng trứng để điều trị ung thư vú, cắt tinh hoàn để điều trị ung thư tuyến tiền liệt hoặc phẫu thuật tạo hình, phục hồi chức năng sau điều trị triệt để. . .
Điều trị tia xạ:
Điều trị tia xạ là dùng tia phóng xạ để tiêu diệt các tế bào ung thư. Cùng với phẫu thuật, tia xạ là một trong hai phương pháp điều trị ung thư phổ biến nhất và hiệu quả nhất.
Điều trị tia xạ đơn thuần có thể chữa khỏi nhiều loại ung thư khi còn ở giai đoạ khu cư trú tại chỗ – tại vùng, nhất là trong các bệnh ung thư hạch bạch huyết, ung thư da, ung thư cổ tử cung, ung thư vòm họng, một số ung thư vùng đầu cổ…
Điều trị tia xạ phối hợp với phẫu thuật thường được áp dụng trong nhiều trường hợp khi ung thư đã phát triển tương đối lớn hơn. Có khi tia xạ trước mổ nhằm giảm bớt thể tích u để dễ mổ, hạn chế di căn xa trong lúc mổ, có khi tia sau mổ nhằm diệt nốt những tế bào ung thư còn sót lại sau mổ. Có khi tia xạ cả trước mổ cả sau mổ hoặc tia xạ phối hợp với hoá chất để tăng khả năng diệt tế bào ung thư tại một khu vực mà điều trị hoá chất không đủ khả năng diệt hết. Việc lập kế hoạch điều trị tia xạ cẩn thận, chi tiết làm cho việc tiêu diệt tổ chức ung thư tối đa mà ít ảnh hưởng đến tổ chức lành xung quanh. Tuy vậy, tia phóng xạ không chỉ diệt tế bào ung thư mà có thể diệt luôn tế bào lành ở vùng bị chiếu gây ra các biến chứng (nếu sử dụng liều lượng không thích hợp hoặc kỹ thuật chiếu không đúng. . .).
Có 3 phương pháp điều trị bằng tia xạ:
1, Tia xạ từ ngoài vào (máy Cobalt, quang tuyến X, máy gia tốc), đây là phương pháp áp dụng rộng rãi nhất.
2, Tia xạ trong (ống, kim radium, máy Afterloading nguồn Cobalt60, Cesium, Yridium, sợi Yridium…) đặt vào các hốc tự nhiên của cơ thể (tử cung, âm đạo, các xoang…) hoặc cắm vào các tổ chức mang ung thư.
3, Thuốc có gắn đồng vị phóng xạ: Uống hoặc tiêm các thuốc có đồng vị phóng xạ (I 131) hoặc kháng thể đặc hiệu có gắn đồng vị phóng xạ để diệt tế bào ung thư trong quá trình chuyển hoá và kết hợp chọn lọc.
Điều trị hoá chất:
Là phương pháp dùng thuốc (các hoá chất chống ung thư) để chữa bệnh, thường được áp dụng để chữa các ung thư của hệ thống tạo huyết (bệnh bạch cầu, U limphô ác tính…) hoặc ung thư đã lan tràn toàn thân mà phẫu thuật và tia xạ không có khả năng điều trị được.
Hoá chất có thể điều trị triệt để rất tốt với các loại ung thư rất nhạy cảm với hoá chất như ung thư tinh hoàn, ung thư nhau thai (Choriocarcinome), ung thư tế bào mầm của buồng trứng, và một số ung thư nguyên bào ở trẻ em, ung thư hạch bạch huyết. . .
Hoá chất hỗ trợ cho phẫu thuật và tia xạ: Trong một số trường hợp ung thư đã lan rộng (ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư phần mềm. . .).
Hoá chất điều trị tạm thời (ít dùng): Áp dụng cho ung thư đã lan tràn toàn thân nhưng ít nhiều có nhạy cảm với hoá chất, điều trị nhằm mục đích kéo dài cuộc sống hoặc tạm thời có cảm giác dễ chịu. Điều trị hoá chất không chỉ giá thành hiện nay còn đắt mà thông thường thuốc có nhiều tác dụng độc hại, ví nó như sử dụng con dao hai lưỡi. người thày thuốc chuyên khoa hoá chất phải biết mức độ nhậy cảm thuốc của tế bào ung thư, từng vị trí và giai đoạn bệnh, sức chịu đựng của từng bệnh nhân để chọn thuốc thích hợp hoặc phối hợp nhiều loại thuốc để có tác dụng tối đa trên ung thư và giảm độc hại tối thiểu đối với cơ thể.
Điều trị nội tiết:
Có một số loại ung thư điều trị bằng nội tiết có tác dụng lui bệnh tốt, vì vậy được sử dụng như một phương pháp phối hợp với các phương pháp điều trị khác.
Điều trị nội tiết có thể bằng cách:
1, Dùng các nội tiết tố (Hóc-môn): Các dẫn chất Corticoid, hay dùng trong phác đồ điều trị ung thư máu, ung thư hạch bạch huyết, testosteron trong điều trị ung thư vú, nội tiết tố nữ Oestradiol, progesteron trong ung thư tuyến tiền liệt…
2, Cắt bỏ tuyến nội tiết: Cắt buồng trứng trong ung thư vú, cắt tinh hoàn trong ung thư tuyến tiền liệt.
3, Dùng thuốc ức chế sản xuất nội tiết tố hoặc ức chế, cạnh tranh tác dụng của nội tiết tố trên tế bào ung thư (Tamoxiphen kháng oastrogen trong điều trị ung thư vú), các antiaromatase (Arimidex, Femara… ức chế sản xuất oestrogen).
Điều trị miễn dịch:
Trong khoảng 20 năm gần đây, những hiểu biết về hệ thống miễn dịch ngày càng tiến bộ, nhiều người đã sử dụng các cytokin và kháng thể đơn dòng có khả năng điều hòa hoạt động của hệ miễn dịch trong điều trị ung thư và một số bệnh lý khác. Các chất miễn dịch không đặc hiệu có nguồn gốc sinh học như: BCG và Carynebacterium barvum đã được sử dụng trên thực nghiệm và trên người. Các chất kích thích miễn dịch không đặc hiệu có nguồn gốc hoá học như LH1… cũng đang được nghiên cứu.
* Bệnh viện Hữu Nghị Lạc Việt sử dụng phác đồ điều trị của Bệnh viện K TW, đồng thời mời các chuyên gia tại bệnh viện K TW, bệnh viện Ung bướu Hà Nội về làm việc tại Lạc Việt.